Literacy là gì
Ở nội dung này mình mong muốn chia sẻ một số điều mình học được keyword Media Literacy của Crash Course. Khóa học gồm 12 video, mỗi video chỉ kéo dài khoảng 10 phút. Đây thật sự là một khóa học rất hay & thiết yếu trong niên đại thông tin tràn ngập như ngày nay. Bên cạnh đó nội dung của mình sẽ không bao quát toàn thể bài viết khóa học nên mình vẫn khích lệ các bạn vào xem từng video. Mình sẽ để backlink khóa học ở cuối bài.
Bạn đang xem: literacy là gì“>Literacy là gì
Trước hết hãy cùng tìm tòi một tí về khái niệm của Media Literacy. Theo khái niệm của National association of media literacy education:
Media Literacy is the ability to access, analyze, evaluate, creat and act using all forms of media – Media literacy (tạm dịch: Học & hiểu về truyền thông) là khả năng truy cập, nghiên cứu, nhận xét, tạo thành & sử dụng mọi loại phương tiện truyền thông.
Theo khái niệm đó, những thắc mắc bạn cần tự đưa ra cho bản thân khi tiếp cận với một nguồn thông tin mới là:
– Nhận xét: Bạn có nhận biết mỗi thông điệp đều được tạo thành đưa trong mình những quan niệm & mục tiêu riêng của người tạo thành nó không?
– Tạo nên: Khi bạn lập một blog riêng hay một account instagram, bổ phận của các bạn với những người sẽ xem nó là gì?
Với những học thức về media literacy, bạn sẽ nghĩ về những thắc mắc trên mỗi lần bạn tham khảo một thông tin hay lướt qua một tờ báo chí. & điều này rất trọng yếu bởi nó giúp bạn có thể nhận biết những thông điệp hay cách sống mà truyền thông mong muốn hướng bạn theo.
không chỉ thế, bạn còn tồn tại thể ứng phó được với thông tin giả – 1 vấn đề nhức nhối hiện tại. Khi mà toàn bộ những thông tin bạn có được, cách bạn nhìn nhận vấn đề & toàn cầu xoay quang mình đều được lấy từ truyền thông thì thắc mắc trọng yếu đưa ra là: “Đâu là thông tin mà bạn có thể tin tưởng?” Việc hiểu & thực hành Media Literacy có thể phân phối cho bạn những dụng cụ thiết yếu để tìm thấy được câu giải đáp cho thắc mắc này.
Nhưng trước khi đi sâu vào các kĩ thuật của Media Literacy, hãy cùng trang bị học thức về truyền thông nói chung.
Vào thế kỉ 17, tạp chí chào đời, là phương tiện trước tiên phân phối thông tin cho sll với chi phí rẻ. Nhưng mục đích của tạp chí không những là phân phối thông tin mà còn để làm nên tiền. Như khẩu hiểu trên báo The New York Sun: “Mục tiêu của tờ báo này là để đưa ra trước công chúng thông tin của mỗi ngày với 1 giá cả phù hợp với mọi người và đồng thời cung cấp một phương tiện truyền thông cho quảng cáo”
Nhiều người lúc đó đã khởi đầu quan ngại rằng tạp chí có thể quá chăm chú vào tiếp thị & đánh mất đi mục tiêu ban đầu của mình. Điều này đã thật sự xảy ra vào thế kỉ 18 khi hai tờ báo the New York World & the New York Journal cạnh tranh với nhau. Cả hai đều mong muốn chuyên sâu lợi nhuận bán báo của mình để lôi kéo nhiều hơn các hợp đồng tiếp thị lớn. Chính vì như thế cả 2 tờ báo không còn chăm chú vào việc phân phối thông tin cho người xem mà làm sao mà nhiều người xem hơn để từ đó tăng thu nhập.
Hiện tượng này gọi là Yellow Journalism: Khi nhà báo sử dụng các tiêu đề giật tít, những cuộc phỏng vấn giả & những mẩu truyện được thổi phồng, sử dụng các hình ảnh sặc sỡ hoặc bất kể cách nào để bán được báo. Thường đề tài là về scandal, thể thao, phạm nhân,..
Không quá khó để bạn nhận biết Yellow Journalist không phấn đấu để bán sự thật, thứ họ bán là một mẩu truyện. Khi nhìn kĩ hơn, bạn sẽ nhận biết những kĩ năng mà họ sử dụng để tiêu khiển hay làm chểnh mảng mình như là chăm chú vào drama, đề ra các giả thuyết, không có số liệu hay chứng minh rõ ràng,..
Vậy nên, khi tiếp cận với một thông tin mới, các bạn hãy test thử những điều trên để chắc rằng rằng mình không bị cuốn vào những thông tin giả nhé!
Có một triết lí về truyền thông mà Marshall McLuhan – giáo sư người Canada, triết gia về Lý thuyết Truyền thông đã đề ra rằng: “The way we communicate is more important than what we communicate” – “Cách chúng ta giao tiếp quan trọng hơn những điều ta giao tiếp”
Phần trọng yếu của 1 thông điệp không phải là về điều nó đang kể tới mà là cách nó truyền tải đã biến đổi mối quan hệ giữa tất cả chúng ta với toàn cầu bên ngoài.
Hãy xem thử 1 chẳng hạn, bạn chứng kiến một bài viết chúc mừng sinh nhật của một người bạn trên newsfeed. Bạn biết đó là bài viết chúc mừng sinh nhật mẹ người ấy. Vì có một bức hình dễ thương của hai mẹ con kèm theo 1 caption về việc bạn ấy cảm ơn mẹ – người bạn bè nhất, người tuyệt vời nhất trong cuộc sống. Nhưng nếu nhìn kĩ hơn, trước khi có sự chào đời của facebook, liệu bạn có chia sẻ ngày sinh nhật của mẹ mình với những người chẳng mấy thân thiết. Có vẻ không.
Vậy vì sao lại phải đăng lên facebook? Vì có thể mẹ bạn ấy sẽ thấy bài viết ấy & cảm thấy mình là người phụ nữ hạnh phúc nhất. Có thể những người khác sẽ thấy & chúc mừng sinh nhật mẹ bạn. Có thể gia đình bạn sẽ thấy & bạn sẽ trông như một người con tuyệt vời.
Vì sao lại là 1 bức ảnh dễ thương. Đó dễ dàng là điều mọi người làm ngày nay. Bạn chỉ chẳng thể đăng lên “Chúc mừng sinh nhật mẹ”. Nó sẽ nghe thật máy móc & nhàm chán.
“Since facebook was born, generations have formed new habits around sharing ofonline with friends and family. Facebook as a medium has influenced not only what people say, but when and how they say it, and to whom.” – “Kể từ khi Facebook ra đời, các thế hệ đã tạo nên những thói quen mới về việc chia sẻ thông tin với gia đình và bạn bè. Facebook như 1 phương tiện truyền thông đã ảnh hưởng không chỉ điều mà mọi người nói, mà cả khi nào và cách họ nói như thế nào, và nói với ai.”
Ở phần này, mình sẽ nói về 1 số điều mà trí não tất cả chúng ta đang tự lập trình & có thể sẽ gây ra những nhận định lỗi lầm khi ta tiếp cận thông tin:
– Đôi khi khi ta chẳng thể nhớ lại cụ thể của 1 sự việc, não của các bạn sẽ thay thế bằng những điều khác có lẽ có lí. Ví dự như bạn là nhân chứng cho 1 vụ trộm. Công an hỏi bạn vậy tên trộm đưa áo màu gì? Bạn không chắc lắm về điều này, nhưng bỗng nhân chứng bên cạnh nói rằng tên trộm đưa áo màu tím. & bạn nghĩ dường như đúng là tên trộm đưa áo màu tím. Không phải bạn phấn đấu để nói dối, chỉ là khoảng cách giữa tưởng tượng & thực tiễn quá nhỏ để bạn nhận biết.
Khi nhìn nhận từ góc cạnh này, nếu bạn tiếp xúc với thông tin giả, sự thật là nó sẽ đơn giản hơn để tạo thành một ký ức hơn là biến đổi ký ức đó. Chẳng hạn như khi độc giả được tin giả trên Fb, bạn sẽ đơn giản nhớ tin giả đó hơn là update lại tin mới được đính chính.
– 1 điều đáng chú trọng nữa là tất cả chúng ta tin vào điều mà tất cả chúng ta mong muốn tin. Điều này gọi là Confirmation Bias. Những thử nghiệm của các bạn khiến ta ưu thích, hiểu & tín nhiệm vào 1 số điều khẳng định. Chính vì như thế nên khi phải đương đầu với nhiều thông tin khó chắt lọc, ta thường có thiên hướng chọn đọc những điều mình đã hiểu & đã tin. Điều đó cũng có nghĩa khi ta đọc được những điều giống với những gì ta tín nhiệm, ta có thiên hướng tin nó hơn. Điều đó cũng có nghĩa nếu bạn & mình cùng đọc 1 thông tin như nhau, tất cả chúng ta có thể lấy vào những thông điệp trái ngược nhau.
Đặc biệt khi mà Fb sử dụng các thuật toán để hiện lên newsfeed của các bạn những thông tin mà bạn sẽ thích. Nó có vẻ sẽ ổn còn nếu như không phải đa số tất cả chúng ta ngày nay đều lấy thông tin từ Fb. & điều đó sẽ chỉ càng làm củng cố những thiên kiến hay những thiên vị của các bạn về 1 vấn đề hay 1 nhóm người, 1 người khẳng định.
– Tất cả chúng ta thích những mẩu truyện. Nếu mẩu truyện đó dễ dàng, dễ hiểu & connect với những điều tất cả chúng ta biết từ trước, ta có thiên hướng tin vào nó. Nên khi truyền thông biến những vấn đề cầu kỳ, khó hiểu thành những mẩu truyện thân thiện, thân thuộc với ta. Tất cả chúng ta đơn giản chào đón nó, kể cả khi nó là thông tin sai sự thật.
Mục tiêu & sự chăm chú của truyền thông có thể quyết định cách bạn nghĩ về một vấn đề hay một người, nhóm người xác nhận. Chẳng hạn như khi bạn nhìn vào tiếp thị nước ép, thứ bạn thấy là nước ép này có thể khiến bạn thấy tuyệt vời đến nhường nào chứ không phải việc số lượng đường có trong lọ nước ép đó. Hay khi nhìn vào giải trình số liệu việc làm của chính phủ, điều được chăm chú ở giai đoạn này là số lượng người có việc làm trong năm chứ không phải là số lượng người có được việc làm với doanh thu thấp trong năm.
Truyền thông có sức mạnh làm tác động cách bạn hiểu về giới tính, tôn giáo, chủng tộc, tuổi tác, người khuyết tật & cả thiên hướng tính dục. Những điều trên được phản ánh trên truyền thông thông qua những hình ảnh đại diện. & khi mà truyền thông được vận hành bởi đa số người da trắng, sẽ thật đơn giản để tạo ra hay củng cố thêm những khuôn mẫu & thành kiến.
Cùng đọc qua 1 chẳng hạn về chương trình “Gay BFF”. Những người dẫn chương trình của “Gay BFF” đều có một số điểm giống nhau là: Họ là người đồng tính, đều là người da trắng, họ đều là bạn bè của nhiều người nữ, đều là những người thời trang & yêu thích nhà hát, đều có tính cách hướng ngoại. Truyền thông đã xây dựng 1 khuôn mẫu về người đồng tính nam.
Não của các bạn thích những thứ thân thuộc vì nó sẽ dễ hiểu hơn. Vậy nên tại sao phải tiêu pha tiền cho những chương trình về những người da màu trong cộng đồng LGBTQ khi bạn có thể tiết kiệm thời gian & tiền nong bằng cách chăm chú vào 1 mẫu người duy nhất. Song song, khi đã trở nên thân thuộc, những khuôn mẫu này có thể tiếp tục được sử dụng trên các phương tiện truyền thông mà không gây ra các cuộc tranh cãi nào cả.
Điều này trở thành 1 vấn đề lớn khi mà các khuôn mẫu & thành kiến tiếp tục được trình chiếu trên truyền thông, mọi người có thể tin rằng những khuôn mẫu đó mới là thật. Điều này ngăn chặn sự phong phú, ngăn người khác tìm tòi về nhau & khiến mọi người phấn đấu để đuổi theo những khuôn mẫu đó.
Nhưng vì nguyên nhân gì mà những khuôn mẫu & thành kiến đó lại hiện ra trên truyền thông. Nguyên nhân chính là tiền. Truyền thông được tạo thành từ tiền. & ai sẽ là người chi tiền? Những người có tiền. & họ thường sẽ chi tiền vào những người mà họ nghĩ sẽ có khả năng tạo thành tiền. Đó là những người có kinh nghiệm trong ngành nghề này. & đó cũng chính là những người có tiền. Điều đó trở thành 1 vòng lặp ngăn chặn những tiếng nói độc đáo hiện ra trên truyền thông & để sức mạnh truyền thông văn hóa vào tay 1 số ít người.
Hiển nhiên không phải mọi thứ trên truyền thông đều được tạo thành chỉ vì tiền. & ngày nay đã có nhiều campaign nhằm lột trần những mặt tối của truyền thông.
Bên cạnh đó cần nhớ rằng tất cả chúng ta dành rất là nhiều thời gian của cuộc sống mình với các phương tiện truyền thông nên bạn cần luôn tự hỏi chính mình điều này được tạo thành bởi ai, như vậy nào & có mục đích gì.
Marketing đã dựa trên tháp nhu cầu & tâm lý đông người để hiểu rằng đâu là điều sẽ khiến bạn ghi nhớ & mua sản phẩm. Tháp nhu cầu của Maslow được nhà tâm lý học Abraham Maslow đề ra vào năm 1943. Theo Maslow, về cơ bản, nhu cầu của loài người được chia làm hai nhóm chính: nhu cầu căn bản & nhu cầu bậc cao. Nhu cầu căn bản liên quan đến các yếu tố thể lý của loài người như mong mỏi có đủ thức ăn, nước uống, được nghỉ ngơi… Các nhu cầu cao hơn nhu cầu căn bản trên được gọi là nhu cầu bậc cao. Những nhu cầu này bao gồm nhiều nhân tố trí não như sự đòi hỏi công bình, yên tâm, an toàn, vui vẻ, địa vị xã hội, sự tôn trọng, sướng tên với một cá nhân 𝒱.𝒱.
không chỉ thế, còn tồn tại những yếu tố khác tác động đến cách nhìn của các bạn về tiếp thị. Trước hết là authority: khi mà người đang nói là một Chuyên Viên, tất cả chúng ta dễ tin vào người đó hơn. Kế đến là likeability: nếu tất cả chúng ta thích một người hay tín nhiệm một người, ta cũng sẽ tín nhiệm nhãn hàng mà họ đại diện. Đó là nguyên nhân các nhãn hàng sử dụng những ngôi sao là người đại diện cho mình. Tiếp đó là consistency: nếu những gì tất cả chúng ta nghe hay thấy được cũng giống với những gì tất cả chúng ta đã tin, ta đơn giản đồng ý nó. không chỉ thế còn tồn tại consensus: khi 1 điều nổi tiếng tất cả chúng ta dễ tin vào điều đó. Hay scarce: khi một thứ trở nên khan hiếm, ta lại càng mong muốn có được nó hơn.
Nếu như lúc trước, các nhãn hàng chỉ có thể chiếu tiếp thị & ao ước bạn sẽ để mắt đến. Thì hiện giờ, với sự hiện ra của mạng internet, mọi thứ đã hoàn toàn biến đổi.
Với các đường backlink kéo theo các trang web, bạn có thể hiểu rằng bao nhiều người đã chứng kiến tiếp thị đó & click vào đường backlink của mình. không chỉ thế, qua các website, bạn có thể hiểu rằng những đối tượng ở độ tuổi nào sẽ hứng khởi với những sản phẩm nào, số lần họ sắm sửa hay download 1 mã giảm giá. Tương đương với các video được đề nghị ở youtube.
Qua những website này, bạn đã để lại thông tin về mình. Những người bạn follow, thiết bị nào bạn đang sử dụng, nơi bạn ở, độ nhanh của mạng internet,.. Điều trọng yếu là những website này không giữ thông tin của các bạn cho riêng họ.
Khi bạn đăng kí vào 1 mxh hay 1 trang web, hẳn bạn sẽ thấy một bảng nhắc nhở về những điều lệ mà bạn không được làm & những điều mà họ có thể làm với bạn. Hiển nhiên bạn không đọc hết toàn bộ những điều dông dài đó & họ biết bạn sẽ không đọc. Hãy đọc qua 1 chẳng hạn về Ins. Ins có quyền xóa nick của các bạn nếu bạn phá luật, như gửi tin rác hay đe dọa người khác, thèm ăn cắp ảnh của người khác. Nhưng họ cũng có quyền không nhắc nhở trước khi xóa nick của các bạn, điều đó cũng đồng nghĩa toàn bộ ảnh, phản hồi & sms của các bạn sẽ chẳng thể truy cập được. không chỉ thế, họ không có quyền sở hữu ảnh của các bạn, nhưng họ có thể bán ảnh của các bạn cho 1 bên thứ ba.
Điều tương đương xảy ra với các mxh khác khi mà thông tin của các bạn, những website bạn truy cập, những posts bạn xem đều có thể bán cho bên thứ 3. Bằng cách đó, các tiếp thị sẽ được tiếp cận với đúng đối tượng & tiếp tục vòng lặp.
Hãy nhớ rằng khi 1 thứ Free, bạn chính là sản phẩm. & đừng quên những gì tồn tại trên intesẽ không lúc nào biệt tích. Vậy nên hãy cẩn trọng khi bạn chia sẻ bất kể thông tin gì trên intevì nó có thể theo bạn suốt cuộc sống.
Nói 1 cách dễ dàng thì có những công ty tư vấn du học ở các ngành nghề gần liên quan đến nhau link với nhau để tạo nên 1 công ty tư vấn du học mẹ. Chẳng hạn như bạn mong muốn bắt mạng intecủa công ty tư vấn du học 𝓐 ví dụ thì có thể 𝓐 có link với một công ty tư vấn du học Ɓ. Nên 𝓐 có thể tăng vận tốc tải mạng của các bạn khi nhấn vào link của công ty tư vấn du học đó & làm chậm vận tốc tải mạng khi bạn nhấn vào những công ty tư vấn du học địch thủ.
Ở đời thực thì có những công ty tư vấn du học sở hữu nhiều các phương tiện truyền thông mà tất cả chúng ta cần chú trọng. Như là News Corp sở hữu Fox, Fox News, Fx, The Wall Street Journal, The Daily News, The New York Bài viết, Harper Collins, 20th Century Fox. Hay như Fb sở hữu hơn 50 công ty tư vấn du học, Ins, Whatapps, Journalism Project, Instant Articles Product.
45% người trẻ ở Mỹ lấy thông tin từ Fb nhưng Fb chẳng hề tự nhận mình là công ty tư vấn du học truyền thông. Điều đặc biệt là Ủy ban Truyền thông Liên bang Mỹ có quyền cấm chiếu các bài hát hoặc thông tin không thích hợp trên sóng truyền hình, radio nhưng không có quyền tương đương với các công ty tư vấn du học công nghệ như Fb, Amazon, Google.
Như thế bạn có thể biết rằng các apps bạn dùng hay các báo độc giả nằm trong 1 mạng lưới link với nhau & những mạng lưới này có thể cộng tác để hướng nghĩ suy của các bạn sao cho bổ ích cho họ.
Trước hết hãy cùng tìm tòi về Propaganda (từ này không biết dịch tiếng việt sao, đại khái là truyền thông theo nghĩa tiêu cực): là những thông tin được sử dụng để ủng hộ 1 nhận định, 1 biến đổi về hành vi hay 1 thôi thúc hành động. Thỉnh thoảng thông tin đó có thể là sự thật & sáng kiến, đôi lúc có thể là ý kiến hoặc cũng có khi là cố tình chuyển hướng người xem hay làm người xem thiên vị.
Propaganda có thể hiểu cũng giống như các campaign pr cho nhãn hàng nhưng khác ở giai đoạn này sáng kiến mà Propaganda ủng hộ có thể là những sáng kiến tiêu cực như ủng hộ tranh đấu, hạ bệ ứng cử viên tổng thống,.. Chẳng hạn như phát xít Đức đã sử dụng Propaganda để bài xít người Do Thái trong tranh đấu toàn cầu thứ 2.
không chỉ thế tất cả chúng ta cũng nên cảnh giác với Disinformation: Làm bối rối hay xao nhãng người xem bằng những thông tin sai, thông tin đánh lạc hướng. Ở niên đại Intenhư ngày nay, disinformation có thể đơn giản len lỏi vào cuộc đời của mỗi người bằng các campaign online, các facebook ads,.. Vấn đề cần quan tâm nhất của disinformation là nó đánh lạc hướng tất cả chúng ta & khiến ta bị sợ hãi không biết đâu mới là sự thật.
Như ở lúc trước mình đã đề cập, Media Literacy là khả năng truy cập, nghiên cứu, nhận xét, tạo thành & sử dụng mọi loại phương tiện truyền thông. Về khả năng truy cập, hắn toàn bộ các bạn đều có thể làm được.
Nhưng về khả năng nghiên cứu, đó là khả năng nhận thấy rằng toàn bộ các phương tiện truyền thông đều được tạo thành với 1 mục đích & 1 ý kiến rõ ràng. Renee Hobbs – nhà phân tích trong ngành nghề Media Literacy khích lệ mọi người giải đáp 5 thắc mắc này khi gia nhập vào các phương tiện truyền thông:
Kế đến là về khả năng nhận xét mức độ tin cậy & chất lượng của phương tiện truyền thông. Julie Coiro – cũng là nhà phân tích trong ngành nghề Media Literacy đã bảo rằng có 4 yếu tố mà tất cả chúng ta cần để mắt đến:
3. Sự thiên vị: phân biệt được liệu có phải người đề ra thông tin đó đang bỏ qua sự thật để hướng tất cả chúng ta theo 1 ý kiến riêng, & tự hỏi điều đó trổ tài như vậy nào ở các nhà xuất bản? Tốt nhất nên đọc các thông tin trái chiều để có hướng nhìn rõ hơn.
4. Độ tin cậy: độ tin cậy của nhà xuất bản hay người đề ra thông tin dựa theo cả công cuộc hoạt động của họ.
Phần tiếp là về việc tự tạo thành media. Đây là 1 cách hay để bạn tự thực hành những giá trị về truyền thông mà bạn đã học được. Có thể chỉ dễ dàng là viết 1 blog hoặc đăng 1 bài viết trên mxh.
Hành động trong media literacy có thể là bạn tìm tòi về thông tin của 1 ứng cử viên cho tổng thổng & sử dụng những thông tin đó khi bạn đi bầu cử. Nó cũng là thể là việc bạn khởi đầu ăn chay sau khoảng thời gian đọc về những loài gia súc, gia cầm trên các trang trại. Nó cũng có thể là xóa đi Twitter khi bạn nhận biết mình đã nghiện mxh.
Hiển nhiên không phải bao giờ bạn cũng có thể vận dụng toàn bộ những tuyệt kỹ trên. Nhưng bằng cách khởi nguồn từ từ từng bước một, tập từng tuyệt kỹ một, bạn sẽ có trong tay những tuyệt kỹ thiết yếu để sống sót trong niên đại thông tin tràn ngập như ngày nay.
Mình mong muốn nhắc lại 1 lần nữa đây chỉ là một số điều mình học được keyword học chứ không phải toàn bộ bài viết của khóa học. Nên mình mong các bạn sẽ vào backlink khóa học ở dưới để có 1 hướng nhìn toàn diện hơn về đề tài này.
Tìm hiểu thêm: Mlem Mlem Là Gì – ý Nghĩa Của Từ Mlem
không chỉ thế thì mình cũng khá cảm ơn các bạn đã đọc đến đây. Đúng ra mình định viết xong bài này trước tết tuy nhiên nhác quá nên đến hiện giờ mới xong được :))) Dù chỉ mới biết đến Spiderum chưa được 1 năm nhưng ở trên Spiderum mình đọc được không ít những nội dung & phản hồi đa chiều, những điều đó đã hỗ trợ mình học hỏi rất là nhiều. Mong rằng năm 2019 này Spiderum sẽ lớn mạnh hơn nữa để mình được đọc nhiều nội dung chất lượng nữa :)))
Ở nội dung này mình mong muốn chia sẻ một số điều mình học được keyword Media Literacy của Crash Course. Khóa học gồm 12 video, mỗi video chỉ kéo dài khoảng 10 phút. Đây thật sự là một khóa học rất hay & thiết yếu trong niên đại thông tin tràn ngập như ngày nay. Bên cạnh đó nội dung của mình sẽ không bao quát toàn thể bài viết khóa học nên mình vẫn khích lệ các bạn vào xem từng video. Mình sẽ để backlink khóa học ở cuối bài.
Trước hết hãy cùng tìm tòi một tí về khái niệm của Media Literacy. Theo khái niệm của National association of media literacy education:
Media Literacy is the ability to access, analyze, evaluate, creat and act using all forms of media – Media literacy (tạm dịch: Học & hiểu về truyền thông) là khả năng truy cập, nghiên cứu, nhận xét, tạo thành & sử dụng mọi loại phương tiện truyền thông.
Theo khái niệm đó, những thắc mắc bạn cần tự đưa ra cho bản thân khi tiếp cận với một nguồn thông tin mới là:
– Nhận xét: Bạn có nhận biết mỗi thông điệp đều được tạo thành đưa trong mình những quan niệm & mục tiêu riêng của người tạo thành nó không?
– Tạo nên: Khi bạn lập một blog riêng hay một account instagram, bổ phận của các bạn với những người sẽ xem nó là gì?
Với những học thức về media literacy, bạn sẽ nghĩ về những thắc mắc trên mỗi lần bạn tham khảo một thông tin hay lướt qua một tờ báo chí. & điều này rất trọng yếu bởi nó giúp bạn có thể nhận biết những thông điệp hay cách sống mà truyền thông mong muốn hướng bạn theo.
không chỉ thế, bạn còn tồn tại thể ứng phó được với thông tin giả – 1 vấn đề nhức nhối hiện tại. Khi mà toàn bộ những thông tin bạn có được, cách bạn nhìn nhận vấn đề & toàn cầu xoay quang mình đều được lấy từ truyền thông thì thắc mắc trọng yếu đưa ra là: “Đâu là thông tin mà bạn có thể tin tưởng?” Việc hiểu & thực hành Media Literacy có thể phân phối cho bạn những dụng cụ thiết yếu để tìm thấy được câu giải đáp cho thắc mắc này.
Nhưng trước khi đi sâu vào các kĩ thuật của Media Literacy, hãy cùng trang bị học thức về truyền thông nói chung.
Vào thế kỉ 17, tạp chí chào đời, là phương tiện trước tiên phân phối thông tin cho sll với chi phí rẻ. Nhưng mục đích của tạp chí không những là phân phối thông tin mà còn để làm nên tiền. Như khẩu hiểu trên báo The New York Sun: “Mục tiêu của tờ báo này là để đưa ra trước công chúng thông tin của mỗi ngày với 1 giá cả phù hợp với mọi người và đồng thời cung cấp một phương tiện truyền thông cho quảng cáo”
Nhiều người lúc đó đã khởi đầu quan ngại rằng tạp chí có thể quá chăm chú vào tiếp thị & đánh mất đi mục tiêu ban đầu của mình. Điều này đã thật sự xảy ra vào thế kỉ 18 khi hai tờ báo the New York World & the New York Journal cạnh tranh với nhau. Cả hai đều mong muốn chuyên sâu lợi nhuận bán báo của mình để lôi kéo nhiều hơn các hợp đồng tiếp thị lớn. Chính vì như thế cả 2 tờ báo không còn chăm chú vào việc phân phối thông tin cho người xem mà làm sao mà nhiều người xem hơn để từ đó tăng thu nhập.
Hiện tượng này gọi là Yellow Journalism: Khi nhà báo sử dụng các tiêu đề giật tít, những cuộc phỏng vấn giả & những mẩu truyện được thổi phồng, sử dụng các hình ảnh sặc sỡ hoặc bất kể cách nào để bán được báo. Thường đề tài là về scandal, thể thao, phạm nhân,..
Không quá khó để bạn nhận biết Yellow Journalist không phấn đấu để bán sự thật, thứ họ bán là một mẩu truyện. Khi nhìn kĩ hơn, bạn sẽ nhận biết những kĩ năng mà họ sử dụng để tiêu khiển hay làm chểnh mảng mình như là chăm chú vào drama, đề ra các giả thuyết, không có số liệu hay chứng minh rõ ràng,..
Vậy nên, khi tiếp cận với một thông tin mới, các bạn hãy test thử những điều trên để chắc rằng rằng mình không bị cuốn vào những thông tin giả nhé!
Có một triết lí về truyền thông mà Marshall McLuhan – giáo sư người Canada, triết gia về Lý thuyết Truyền thông đã đề ra rằng: “The way we communicate is more important than what we communicate” – “Cách chúng ta giao tiếp quan trọng hơn những điều ta giao tiếp”
Phần trọng yếu của 1 thông điệp không phải là về điều nó đang kể tới mà là cách nó truyền tải đã biến đổi mối quan hệ giữa tất cả chúng ta với toàn cầu bên ngoài.
Hãy xem thử 1 chẳng hạn, bạn chứng kiến một bài viết chúc mừng sinh nhật của một người bạn trên newsfeed. Bạn biết đó là bài viết chúc mừng sinh nhật mẹ người ấy. Vì có một bức hình dễ thương của hai mẹ con kèm theo 1 caption về việc bạn ấy cảm ơn mẹ – người bạn bè nhất, người tuyệt vời nhất trong cuộc sống. Nhưng nếu nhìn kĩ hơn, trước khi có sự chào đời của facebook, liệu bạn có chia sẻ ngày sinh nhật của mẹ mình với những người chẳng mấy thân thiết. Có vẻ không.
Vậy vì sao lại phải đăng lên facebook? Vì có thể mẹ bạn ấy sẽ thấy bài viết ấy & cảm thấy mình là người phụ nữ hạnh phúc nhất. Có thể những người khác sẽ thấy & chúc mừng sinh nhật mẹ bạn. Có thể gia đình bạn sẽ thấy & bạn sẽ trông như một người con tuyệt vời.
Vì sao lại là 1 bức ảnh dễ thương. Đó dễ dàng là điều mọi người làm ngày nay. Bạn chỉ chẳng thể đăng lên “Chúc mừng sinh nhật mẹ”. Nó sẽ nghe thật máy móc & nhàm chán.
“Since facebook was born, generations have formed new habits around sharing ofonline with friends and family. Facebook as a medium has influenced not only what people say, but when and how they say it, and to whom.” – “Kể từ khi Facebook ra đời, các thế hệ đã tạo nên những thói quen mới về việc chia sẻ thông tin với gia đình và bạn bè. Facebook như 1 phương tiện truyền thông đã ảnh hưởng không chỉ điều mà mọi người nói, mà cả khi nào và cách họ nói như thế nào, và nói với ai.”
Ở phần này, mình sẽ nói về 1 số điều mà trí não tất cả chúng ta đang tự lập trình & có thể sẽ gây ra những nhận định lỗi lầm khi ta tiếp cận thông tin:
– Đôi khi khi ta chẳng thể nhớ lại cụ thể của 1 sự việc, não của các bạn sẽ thay thế bằng những điều khác có lẽ có lí. Ví dự như bạn là nhân chứng cho 1 vụ trộm. Công an hỏi bạn vậy tên trộm đưa áo màu gì? Bạn không chắc lắm về điều này, nhưng bỗng nhân chứng bên cạnh nói rằng tên trộm đưa áo màu tím. & bạn nghĩ dường như đúng là tên trộm đưa áo màu tím. Không phải bạn phấn đấu để nói dối, chỉ là khoảng cách giữa tưởng tượng & thực tiễn quá nhỏ để bạn nhận biết.
Khi nhìn nhận từ góc cạnh này, nếu bạn tiếp xúc với thông tin giả, sự thật là nó sẽ đơn giản hơn để tạo thành một ký ức hơn là biến đổi ký ức đó. Chẳng hạn như khi độc giả được tin giả trên Fb, bạn sẽ đơn giản nhớ tin giả đó hơn là update lại tin mới được đính chính.
– 1 điều đáng chú trọng nữa là tất cả chúng ta tin vào điều mà tất cả chúng ta mong muốn tin. Điều này gọi là Confirmation Bias. Những thử nghiệm của các bạn khiến ta ưu thích, hiểu & tín nhiệm vào 1 số điều khẳng định. Chính vì như thế nên khi phải đương đầu với nhiều thông tin khó chắt lọc, ta thường có thiên hướng chọn đọc những điều mình đã hiểu & đã tin. Điều đó cũng có nghĩa khi ta đọc được những điều giống với những gì ta tín nhiệm, ta có thiên hướng tin nó hơn. Điều đó cũng có nghĩa nếu bạn & mình cùng đọc 1 thông tin như nhau, tất cả chúng ta có thể lấy vào những thông điệp trái ngược nhau.
Đặc biệt khi mà Fb sử dụng các thuật toán để hiện lên newsfeed của các bạn những thông tin mà bạn sẽ thích. Nó có vẻ sẽ ổn còn nếu như không phải đa số tất cả chúng ta ngày nay đều lấy thông tin từ Fb. & điều đó sẽ chỉ càng làm củng cố những thiên kiến hay những thiên vị của các bạn về 1 vấn đề hay 1 nhóm người, 1 người khẳng định.
– Tất cả chúng ta thích những mẩu truyện. Nếu mẩu truyện đó dễ dàng, dễ hiểu & connect với những điều tất cả chúng ta biết từ trước, ta có thiên hướng tin vào nó. Nên khi truyền thông biến những vấn đề cầu kỳ, khó hiểu thành những mẩu truyện thân thiện, thân thuộc với ta. Tất cả chúng ta đơn giản chào đón nó, kể cả khi nó là thông tin sai sự thật.
Mục tiêu & sự chăm chú của truyền thông có thể quyết định cách bạn nghĩ về một vấn đề hay một người, nhóm người xác nhận. Chẳng hạn như khi bạn nhìn vào tiếp thị nước ép, thứ bạn thấy là nước ép này có thể khiến bạn thấy tuyệt vời đến nhường nào chứ không phải việc số lượng đường có trong lọ nước ép đó. Hay khi nhìn vào giải trình số liệu việc làm của chính phủ, điều được chăm chú ở giai đoạn này là số lượng người có việc làm trong năm chứ không phải là số lượng người có được việc làm với doanh thu thấp trong năm.
Truyền thông có sức mạnh làm tác động cách bạn hiểu về giới tính, tôn giáo, chủng tộc, tuổi tác, người khuyết tật & cả thiên hướng tính dục. Những điều trên được phản ánh trên truyền thông thông qua những hình ảnh đại diện. & khi mà truyền thông được vận hành bởi đa số người da trắng, sẽ thật đơn giản để tạo ra hay củng cố thêm những khuôn mẫu & thành kiến.
Cùng đọc qua 1 chẳng hạn về chương trình “Gay BFF”. Những người dẫn chương trình của “Gay BFF” đều có một số điểm giống nhau là: Họ là người đồng tính, đều là người da trắng, họ đều là bạn bè của nhiều người nữ, đều là những người thời trang & yêu thích nhà hát, đều có tính cách hướng ngoại. Truyền thông đã xây dựng 1 khuôn mẫu về người đồng tính nam.
Não của các bạn thích những thứ thân thuộc vì nó sẽ dễ hiểu hơn. Vậy nên tại sao phải tiêu pha tiền cho những chương trình về những người da màu trong cộng đồng LGBTQ khi bạn có thể tiết kiệm thời gian & tiền nong bằng cách chăm chú vào 1 mẫu người duy nhất. Song song, khi đã trở nên thân thuộc, những khuôn mẫu này có thể tiếp tục được sử dụng trên các phương tiện truyền thông mà không gây ra các cuộc tranh cãi nào cả.
Điều này trở thành 1 vấn đề lớn khi mà các khuôn mẫu & thành kiến tiếp tục được trình chiếu trên truyền thông, mọi người có thể tin rằng những khuôn mẫu đó mới là thật. Điều này ngăn chặn sự phong phú, ngăn người khác tìm tòi về nhau & khiến mọi người phấn đấu để đuổi theo những khuôn mẫu đó.
Nhưng vì nguyên nhân gì mà những khuôn mẫu & thành kiến đó lại hiện ra trên truyền thông. Nguyên nhân chính là tiền. Truyền thông được tạo thành từ tiền. & ai sẽ là người chi tiền? Những người có tiền. & họ thường sẽ chi tiền vào những người mà họ nghĩ sẽ có khả năng tạo thành tiền. Đó là những người có kinh nghiệm trong ngành nghề này. & đó cũng chính là những người có tiền. Điều đó trở thành 1 vòng lặp ngăn chặn những tiếng nói độc đáo hiện ra trên truyền thông & để sức mạnh truyền thông văn hóa vào tay 1 số ít người.
Hiển nhiên không phải mọi thứ trên truyền thông đều được tạo thành chỉ vì tiền. & ngày nay đã có nhiều campaign nhằm lột trần những mặt tối của truyền thông.
Bên cạnh đó cần nhớ rằng tất cả chúng ta dành rất là nhiều thời gian của cuộc sống mình với các phương tiện truyền thông nên bạn cần luôn tự hỏi chính mình điều này được tạo thành bởi ai, như vậy nào & có mục đích gì.
Marketing đã dựa trên tháp nhu cầu & tâm lý đông người để hiểu rằng đâu là điều sẽ khiến bạn ghi nhớ & mua sản phẩm. Tháp nhu cầu của Maslow được nhà tâm lý học Abraham Maslow đề ra vào năm 1943. Theo Maslow, về cơ bản, nhu cầu của loài người được chia làm hai nhóm chính: nhu cầu căn bản & nhu cầu bậc cao. Nhu cầu căn bản liên quan đến các yếu tố thể lý của loài người như mong mỏi có đủ thức ăn, nước uống, được nghỉ ngơi… Các nhu cầu cao hơn nhu cầu căn bản trên được gọi là nhu cầu bậc cao. Những nhu cầu này bao gồm nhiều nhân tố trí não như sự đòi hỏi công bình, yên tâm, an toàn, vui vẻ, địa vị xã hội, sự tôn trọng, sướng tên với một cá nhân 𝒱.𝒱.
không chỉ thế, còn tồn tại những yếu tố khác tác động đến cách nhìn của các bạn về tiếp thị. Trước hết là authority: khi mà người đang nói là một Chuyên Viên, tất cả chúng ta dễ tin vào người đó hơn. Kế đến là likeability: nếu tất cả chúng ta thích một người hay tín nhiệm một người, ta cũng sẽ tín nhiệm nhãn hàng mà họ đại diện. Đó là nguyên nhân các nhãn hàng sử dụng những ngôi sao là người đại diện cho mình. Tiếp đó là consistency: nếu những gì tất cả chúng ta nghe hay thấy được cũng giống với những gì tất cả chúng ta đã tin, ta đơn giản đồng ý nó. không chỉ thế còn tồn tại consensus: khi 1 điều nổi tiếng tất cả chúng ta dễ tin vào điều đó. Hay scarce: khi một thứ trở nên khan hiếm, ta lại càng mong muốn có được nó hơn.
Nếu như lúc trước, các nhãn hàng chỉ có thể chiếu tiếp thị & ao ước bạn sẽ để mắt đến. Thì hiện giờ, với sự hiện ra của mạng internet, mọi thứ đã hoàn toàn biến đổi.
Với các đường backlink kéo theo các trang web, bạn có thể hiểu rằng bao nhiều người đã chứng kiến tiếp thị đó & click vào đường backlink của mình. không chỉ thế, qua các website, bạn có thể hiểu rằng những đối tượng ở độ tuổi nào sẽ hứng khởi với những sản phẩm nào, số lần họ sắm sửa hay download 1 mã giảm giá. Tương đương với các video được đề nghị ở youtube.
Qua những website này, bạn đã để lại thông tin về mình. Những người bạn follow, thiết bị nào bạn đang sử dụng, nơi bạn ở, độ nhanh của mạng internet,.. Điều trọng yếu là những website này không giữ thông tin của các bạn cho riêng họ.
Khi bạn đăng kí vào 1 mxh hay 1 trang web, hẳn bạn sẽ thấy một bảng nhắc nhở về những điều lệ mà bạn không được làm & những điều mà họ có thể làm với bạn. Hiển nhiên bạn không đọc hết toàn bộ những điều dông dài đó & họ biết bạn sẽ không đọc. Hãy đọc qua 1 chẳng hạn về Ins. Ins có quyền xóa nick của các bạn nếu bạn phá luật, như gửi tin rác hay đe dọa người khác, thèm ăn cắp ảnh của người khác. Nhưng họ cũng có quyền không nhắc nhở trước khi xóa nick của các bạn, điều đó cũng đồng nghĩa toàn bộ ảnh, phản hồi & sms của các bạn sẽ chẳng thể truy cập được. không chỉ thế, họ không có quyền sở hữu ảnh của các bạn, nhưng họ có thể bán ảnh của các bạn cho 1 bên thứ ba.
Điều tương đương xảy ra với các mxh khác khi mà thông tin của các bạn, những website bạn truy cập, những posts bạn xem đều có thể bán cho bên thứ 3. Bằng cách đó, các tiếp thị sẽ được tiếp cận với đúng đối tượng & tiếp tục vòng lặp.
Hãy nhớ rằng khi 1 thứ Free, bạn chính là sản phẩm. & đừng quên những gì tồn tại trên intesẽ không lúc nào biệt tích. Vậy nên hãy cẩn trọng khi bạn chia sẻ bất kể thông tin gì trên intevì nó có thể theo bạn suốt cuộc sống.
Nói 1 cách dễ dàng thì có những công ty tư vấn du học ở các ngành nghề gần liên quan đến nhau link với nhau để tạo nên 1 công ty tư vấn du học mẹ. Chẳng hạn như bạn mong muốn bắt mạng intecủa công ty tư vấn du học 𝓐 ví dụ thì có thể 𝓐 có link với một công ty tư vấn du học Ɓ. Nên 𝓐 có thể tăng vận tốc tải mạng của các bạn khi nhấn vào link của công ty tư vấn du học đó & làm chậm vận tốc tải mạng khi bạn nhấn vào những công ty tư vấn du học địch thủ.
Ở đời thực thì có những công ty tư vấn du học sở hữu nhiều các phương tiện truyền thông mà tất cả chúng ta cần chú trọng. Như là News Corp sở hữu Fox, Fox News, Fx, The Wall Street Journal, The Daily News, The New York Bài viết, Harper Collins, 20th Century Fox. Hay như Fb sở hữu hơn 50 công ty tư vấn du học, Ins, Whatapps, Journalism Project, Instant Articles Product.
45% người trẻ ở Mỹ lấy thông tin từ Fb nhưng Fb chẳng hề tự nhận mình là công ty tư vấn du học truyền thông. Điều đặc biệt là Ủy ban Truyền thông Liên bang Mỹ có quyền cấm chiếu các bài hát hoặc thông tin không thích hợp trên sóng truyền hình, radio nhưng không có quyền tương đương với các công ty tư vấn du học công nghệ như Fb, Amazon, Google.
Như thế bạn có thể biết rằng các apps bạn dùng hay các báo độc giả nằm trong 1 mạng lưới link với nhau & những mạng lưới này có thể cộng tác để hướng nghĩ suy của các bạn sao cho bổ ích cho họ.
Trước hết hãy cùng tìm tòi về Propaganda (từ này không biết dịch tiếng việt sao, đại khái là truyền thông theo nghĩa tiêu cực): là những thông tin được sử dụng để ủng hộ 1 nhận định, 1 biến đổi về hành vi hay 1 thôi thúc hành động. Thỉnh thoảng thông tin đó có thể là sự thật & sáng kiến, đôi lúc có thể là ý kiến hoặc cũng có khi là cố tình chuyển hướng người xem hay làm người xem thiên vị.
Propaganda có thể hiểu cũng giống như các campaign pr cho nhãn hàng nhưng khác ở giai đoạn này sáng kiến mà Propaganda ủng hộ có thể là những sáng kiến tiêu cực như ủng hộ tranh đấu, hạ bệ ứng cử viên tổng thống,.. Chẳng hạn như phát xít Đức đã sử dụng Propaganda để bài xít người Do Thái trong tranh đấu toàn cầu thứ 2.
không chỉ thế tất cả chúng ta cũng nên cảnh giác với Disinformation: Làm bối rối hay xao nhãng người xem bằng những thông tin sai, thông tin đánh lạc hướng. Ở niên đại Intenhư ngày nay, disinformation có thể đơn giản len lỏi vào cuộc đời của mỗi người bằng các campaign online, các facebook ads,.. Vấn đề cần quan tâm nhất của disinformation là nó đánh lạc hướng tất cả chúng ta & khiến ta bị sợ hãi không biết đâu mới là sự thật.
Như ở lúc trước mình đã đề cập, Media Literacy là khả năng truy cập, nghiên cứu, nhận xét, tạo thành & sử dụng mọi loại phương tiện truyền thông. Về khả năng truy cập, hắn toàn bộ các bạn đều có thể làm được.
Nhưng về khả năng nghiên cứu, đó là khả năng nhận thấy rằng toàn bộ các phương tiện truyền thông đều được tạo thành với 1 mục đích & 1 ý kiến rõ ràng. Renee Hobbs – nhà phân tích trong ngành nghề Media Literacy khích lệ mọi người giải đáp 5 thắc mắc này khi gia nhập vào các phương tiện truyền thông:
Kế đến là về khả năng nhận xét mức độ tin cậy & chất lượng của phương tiện truyền thông. Julie Coiro – cũng là nhà phân tích trong ngành nghề Media Literacy đã bảo rằng có 4 yếu tố mà tất cả chúng ta cần để mắt đến:
3. Sự thiên vị: phân biệt được liệu có phải người đề ra thông tin đó đang bỏ qua sự thật để hướng tất cả chúng ta theo 1 ý kiến riêng, & tự hỏi điều đó trổ tài như vậy nào ở các nhà xuất bản? Tốt nhất nên đọc các thông tin trái chiều để có hướng nhìn rõ hơn.
4. Độ tin cậy: độ tin cậy của nhà xuất bản hay người đề ra thông tin dựa theo cả công cuộc hoạt động của họ.
Phần tiếp là về việc tự tạo thành media. Đây là 1 cách hay để bạn tự thực hành những giá trị về truyền thông mà bạn đã học được. Có thể chỉ dễ dàng là viết 1 blog hoặc đăng 1 bài viết trên mxh.
Hành động trong media literacy có thể là bạn tìm tòi về thông tin của 1 ứng cử viên cho tổng thổng & sử dụng những thông tin đó khi bạn đi bầu cử. Nó cũng là thể là việc bạn khởi đầu ăn chay sau khoảng thời gian đọc về những loài gia súc, gia cầm trên các trang trại. Nó cũng có thể là xóa đi Twitter khi bạn nhận biết mình đã nghiện mxh.
Hiển nhiên không phải bao giờ bạn cũng có thể vận dụng toàn bộ những tuyệt kỹ trên. Nhưng bằng cách khởi nguồn từ từ từng bước một, tập từng tuyệt kỹ một, bạn sẽ có trong tay những tuyệt kỹ thiết yếu để sống sót trong niên đại thông tin tràn ngập như ngày nay.
Tìm hiểu thêm: Tải Game 7 Viên Ngọc Rồng Miễn Phí, Download Songoku
Mình mong muốn nhắc lại 1 lần nữa đây chỉ là một số điều mình học được keyword học chứ không phải toàn bộ bài viết của khóa học. Nên mình mong các bạn sẽ vào backlink khóa học ở dưới để có 1 hướng nhìn toàn diện hơn về đề tài này.
không chỉ thế thì mình cũng khá cảm ơn các bạn đã đọc đến đây. Đúng ra mình định viết xong bài này trước tết tuy nhiên nhác quá nên đến hiện giờ mới xong được :))) Dù chỉ mới biết đến Spiderum chưa được 1 năm nhưng ở trên Spiderum mình đọc được không ít những nội dung & phản hồi đa chiều, những điều đó đã hỗ trợ mình học hỏi rất là nhiều. Mong rằng năm 2019 này Spiderum sẽ lớn mạnh hơn nữa để mình được đọc nhiều nội dung chất lượng nữa :)))
Chuyên đề: Hỏi Đáp
What is LITERACY? What does LITERACY mean? LITERACY meaning, definition & explanation
✪✪✪✪✪ https://ift.tt/2RozVwV ✪✪✪✪✪
✪✪✪✪✪ The Audiopedia Android application, INSTALL NOW https://ift.tt/2r4nBUo ✪✪✪✪✪
What is LITERACY? What does LITERACY mean? LITERACY meaning, definition u0026 explanation.
Literacy is traditionally understood as the ability to read, write, and use arithmetic. The modern term’s meaning has been expanded to include the ability to use language, numbers, images, computers, and other basic means to understand, communicate, gain useful knowledge and use the dominant symbol systems of α culture. The concept of literacy is expanding in OECD countries to include skills to access knowledge through technology and ability to assess complex contexts.
The key to literacy is reading development, α progression of skills that begins with the ability to understand spoken words and decode written words, and culminates in the deep understanding of text. Reading development involves α range of complex language underpinnings including awareness of speech sounds (phonology), spelling patterns (orthography), word meaning (semantics), grammar (syntax) and patterns of word formation (morphology), all of which provide α necessary platform for reading fluency and comprehension.
Once these skills are acquired, the reader can attain full language literacy, which includes the abilities to apply to printed material critical analysis, inference and synthesis; to write with accuracy and coherence; and to use information and insights from text as the basis for informed decisions and creative thought. The inability to do so is called illiteracy or analphabetism.
The United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization (UNESCO) defines literacy as the
source https://daquyneja.com/wiki/literacy-la-gi/
0 nhận xét:
Đăng nhận xét