Thứ Bảy, 27 tháng 11, 2021

| by Người đăng: NEJA GEMSTONES

0

Năm nguồn lực của porter five forces là gì, năm nguồn lực của porter five forces, 5 áp lực cạnh tranh của michael porter

Bạn đang xem: Năm nguồn lực của porter five forces là gì, năm nguồn lực của porter five forces, 5 áp lực cạnh tranh của michael porter Tại daquyneja.com
*

Michael Porter, nhà hoạch định sách lược & cạnh tranh bậc nhất toàn cầu hiện tại, đã phân phối một khung lý thuyết để nghiên cứu, mô hình hóa các nghề kinh doanh & nghĩ rằng nghề kinh doanh nào cũng cần phải chịu ảnh hưởng của năm lực lượng cạnh tranh. Các nhà sách lược đang tìm kiếm ưu điểm nổi bật hơn các địch thủ có thể sử dụng mô hình này nhằm am hiểu hơn cục diện của nghề kinh doanh mình đang hoạt động.

Bạn đang xem: Five forces là gì

Mô hình Porter’s Five Forces được xuất bản lần đầu trên báo chí Harvard Business Review năm 1979 với bài viết khám phá yếu tố tạo nên lợi ích trong kinh doanh. Mô hình này, thường được gọi là “Năm áp lực cạnh tranh của Porter”, được xem là dụng cụ hữu ích & hiệu quả để khám phá nguồn gốc lợi ích. Trọng yếu hơn hết, mô hình này phân phối các sách lược cạnh tranh để công ty duy trì hay tăng lợi ích.

Các công ty thường sử dụng mô hình này để nghiên cứu xem họ có nên tham gia một thị trường nào đó, hoặc hoạt động trong một thị trường nào đó không. Ngoài ra, vì môi trường kinh doanh ngày nay đưa tính “động”, nên mô hình này còn được áp dụng để tìm kiếm trong một nghề khẳng định các khu vực cần được cải tổ để sản sinh nhiều lợi ích hơn. Các đơn vị chính phủ, ví dụ như Ủy ban phòng độc quyền & sát nhập ở Anh, hay Phòng ban phòng độc quyền & Bộ Tư pháp ở Mỹ, cũng sử dụng mô hình này để nghiên cứu xem liệu có công ty du học nào đang lợi dụng công chúng hay không.

*

Theo Michael Porter, cường độ cạnh tranh trên thị trường trong một nghề sản xuất bất kỳ chịu ảnh hưởng của 5 lực lượng cạnh tranh sau:

1. Sức mạnh nhà sản xuất trổ tài ở các đặc tính sau:

– Mức độ chăm chú của các nhà sản xuất,– Tầm trọng yếu của số lượng sản phẩm so với nhà sản xuất,- Sự độc đáo của các nhà sản xuất,- Tác động của các yếu tố đầu vào so với ngân sách hoặc sự độc đáo hóa sản phẩm,- Ngân sách chuyển hóa của các công ty trong nghề,- Sự tồn tại của các nhà sản xuất thay thế,- Rủi ro tăng cường sự thống nhất của các nhà sản xuất,- Ngân sách cung cấp đối với tổng lợi tức của nghề.

2. Rủi ro thay thế trổ tài ở:

– Các ngân sách chuyển hóa trong sử dụng sản phẩm,- Thiên hướng sử dụng hàng thay thế của KH,- Tương quan giữa giá thành & chất lượng của các mặt hàng thay thế.

3. Các chướng ngại vật tham gia trổ tài ở:

– Các lợi thế ngân sách tuyệt đối,- Sự hiểu biết về chu kỳ dao động thị trường,- Khả năng tiếp cận các yếu tố đầu vào,- Cơ chế của chính phủ,- Tính kinh tế theo quy mô,- Các yêu cầu về vốn,- Tính đặc thù của nhãn hiệu hàng hóa,- Các ngân sách chuyển hóa nghề kinh doanh,- Khả năng tiếp cận với kênh cung cấp,- Khả năng bị trả đũa,- Các sản phẩm độc quyền.

4. Sức mạnh KH trổ tài ở:

– Vị trí mặc cả,- Số lượng người mua,- Thông tin mà người mua có được,- Tính đặc thù của nhãn hiệu hàng hóa,- Tính nhạy cảm so với giá,- Sự độc đáo hóa sản phẩm,- Mức độ chăm chú của KH trong nghề,- Mức độ sẵn có của hàng hóa thay thế,- Động cơ của KH.

5. Mức độ cạnh tranh trổ tài ở:

– Các chướng ngại vật nếu mong muốn “thoát ra” khỏi nghề,- Mức độ chăm chú của nghề,- Ngân sách cố định/giá trị tăng trưởng,- Hiện trạng tăng lên của nghề,- Hiện trạng dư thừa công suất,- Độc đáo giữa các sản phẩm,- Các ngân sách chuyển hóa,- Tính đặc thù của nhãn hiệu hàng hóa,- Tính phong phú của các địch thủ cạnh tranh,- Hiện trạng chọn lọc trong nghề.

Nghiên cứu năm lực lượng cạnh tranh

1. Mức độ cạnh tranh (Degree of Rivalry)

Trong mô hình kinh tế truyền thống, cạnh tranh giữa các công ty địch thủ đẩy lợi ích tiến dần tới con số 0, nhưng trong cuộc cạnh tranh ngày nay, các công ty không ngây thơ đến mức chịu đồng ý giá một cách bị động. Trên thực tiễn, các hãng đều phấn đấu để có được lợi thế cạnh tranh đối với địch thủ của mình. Cường độ cạnh tranh biến đổi khác nhau tùy vào từng nghề, & các nhà nghiên cứu sách lược rất quan tâm đến những điểm nhấn đó.

Các nhà kinh tế nhận xét khả năng cạnh tranh theo các chỉ số về mức độ chăm chú của nghề, & tỷ lệ chăm chú (Concentration Ration – CR) là một trong những chỉ số phải nói tới trước tiên. Chỉ số này cho biết % thị phần do 4 hãng lớn nhất trong nghề nắm giữ. không dừng lại ở đó còn tồn tại chỉ số CR về tỷ lệ thị trường do 8, 25 & 50 hãng đầu nghề làm chủ. Chỉ số càng cao cho thấy mức độ chăm chú thị phần vào các hãng lớn nhất càng lớn, đồng nghĩa với việc nghề đó có mức độ chăm chú cao. Nếu chỉ có một số hãng nắm giữ phần nhiều thị phần, thì nghề sẽ đưa tính cạnh tranh thấp hơn (gần với độc quyền bán). Tỷ lệ chăm chú thấp cho thấy nghề có rất là nhiều địch thủ, trong đó không có địch thủ nào chiếm thị phần đáng kể. Các thị trường gồm nhiều “mảnh ghép” này được cho là có tính cạnh tranh. Ngoài ra, tỷ lệ chăm chú không phải là chỉ số duy nhất, bởi vì khuynh hướng khái niệm nghề đưa nhiều thông tin hơn đối với sự phân bố thị phần.

Nếu mức độ cạnh tranh giữa các hãng trong một nghề thấp, thì nghề đó được coi là “có kỷ luật”. Kỷ luật này có thể là kết quả của lịch sử cạnh tranh trong nghề, vai trò của hãng dẫn đầu, hoặc sự tuân thủ với các chuẩn mực đạo đức chung. Sự cấu kết giữa các công ty du học nhìn chung là không hợp pháp. Trong những nghề có mức độ cạnh tranh thấp, các động tĩnh cạnh tranh chắc rằng bị giới hạn một cách không chính thức. Ngoài ra, một công ty du học không đồng ý tuân thủ luật lệ mà tìm kiếm lợi thế cạnh tranh có thể làm mất đi cái thị trường “có kỷ luật” đó.

Khi một địch thủ hành động theo cách khiến các hãng khác buộc phải trả đũa, thì tính cạnh tranh ở thị trường đó sẽ tăng trưởng. Cường độ cạnh tranh thường được diễn tả là khốc liệt, mạnh khỏe, vừa phải, hoặc yếu, tùy vào việc các hãng nỗ lực giành lợi thế cạnh tranh đến mức nào.

Để có được lợi thế cạnh tranh đối với các địch thủ, một công ty có thể chọn một số động tĩnh cạnh tranh như sau:

– Biến đổi giá – tăng hoặc giảm giá để có được lợi thế ngắn hạn.

– Tăng sự độc đáo của sản phẩm – cải tổ các đặc điểm, cải tiến công cuộc sản xuất & cải tiến sản phẩm.

– Sử dụng các kênh cung cấp một cách sáng kiến – dùng hội nhập theo chiều dọc hoặc sử dụng một kênh cung cấp mới chưa có trong nghề. Ví dụ như trong nghề bán buôn kim hoàn, các cửa tiệm kim hoàn thượng hạng ngần ngại không bán đồng hồ, hãng Timex đã chuyển tới các cửa tiệm thuốc & các đại lý không truyền thống khác. Nhờ đó, hãng đã hoàn toàn kiểm soát thị trường đồng hồ có giá từ thấp đến bình quân.

– Khai thác mối quan hệ với các nhà sản xuất – chẳng hạn, từ những năm 1950 – 1970, hãng Sears, Roebuck & Co. chi phối thị trường hàng dân dụng bán lẻ. Sears đã đưa ra các tiêu chí chất lượng tốt & yêu cầu các nhà sản xuất phải thỏa mãn các yêu cầu về chỉ số kỹ thuật & giá sản phẩm của họ.

Đọc thêm: “Don Juan Việt” Từ Chuyện Tình Ồn Ào Với Lương Hoàng Anh Làm Ngành Gì

Cường độ cạnh tranh chịu ràng buộc của các đặc tính nghề sau đây:

Số lượng công ty du học lớn. Số lượng công ty du học lớn làm tăng tính cạnh tranh, vì có nhiều hãng hơn trong lúc tổng số KH & nguồn lực không đổi. Tính cạnh tranh sẽ càng mạnh hơn nếu các hãng này có thị phần tương tự nhau, kéo theo phải “chiến đấu” dành dụm địa điểm chi phối thị trường.

Thị trường tăng lên chậm. Đặc tính này khiến các hãng phải cạnh tranh tích cực hơn để chiếm giữ thị phần. Trong một thị trường tăng lên cao, các hãng có khả năng tăng thu nhập có thể chỉ do thị trường mở rộng.

Các ngân sách cố định cao. Ngân sách cố định cao thường tồn tại trong một nghề có tính kinh tế theo quy mô, có nghĩa là ngân sách giảm khi quy mô sản xuất tăng. Khi tổng ngân sách chỉ to hơn không đáng kể đối với các ngân sách cố định, thì các hãng phải sản xuất gần với tổng công suất để đạt được mức chi phí rẻ nhất cho từng nhà cung cấp sản phẩm. Như thế, các hãng sẽ phải bán một số lượng rất lớn sản phẩm trên thị trường, & chính vì như vậy phải tranh giành thị phần, kéo theo cường độ cạnh tranh tăng trưởng.

Ngân sách lưu kho cao hoặc sản phẩm dễ hỏng hóc. Đặc tính này khiến nhà cung cấp mong muốn bán hàng hóa càng nhanh càng tốt. Nếu cùng thời điểm đó, các nhà cung cấp khác cũng mong muốn bán sản phẩm của họ thì cuộc cạnh tranh giành KH sẽ trở nên dữ dội.

Ngân sách chuyển hóa hàng hóa thấp. Khi một KH đơn giản chuyển từ sử dụng sản phẩm này sang sản phẩm khác, thì mức độ cạnh tranh sẽ cao hơn do các nhà cung cấp phải phấn đấu để giữ chân KH.

Mức độ độc đáo hóa sản phẩm thấp. Đặc tính này luôn kéo theo mức độ cạnh tranh cao. Trái lại, nếu sản phẩm của các hãng khác nhau có đặc tính hàng hóa khác nhau rõ rệt sẽ giảm cạnh tranh.

Khả năng biến đổi sách lược cao. Khả năng biến đổi sách lược cao xảy ra khi một hãng đang mất dần vị trí thị trường của mình, hoặc có tiềm năng chiếm được nhiều lợi ích hơn. Tình huống này cũng làm tăng tính cạnh tranh trong nghề.

Các chướng ngại vật “thoát ra” cao. Đặc tính này khiến công ty phải chịu một ngân sách cao, nếu mong muốn từ bỏ không sản xuất sản phẩm nữa. Chính vì thế hãng buộc phải cạnh tranh. Vật cản này khiến cho một công ty buộc phải ở lại trong nghề, ngay cả khi công việc kinh doanh không thuận tiện lắm. Một chướng ngại vật thông dụng là tính đặc thù của tài sản cố định. Khi công xưởng & thiết bị có tính chuyên môn hóa cao thì khó có thể bán các tài sản đó cho những nghề khác. Việc hãng Litton Industries chiếm được các thiết bị của hãng đóng tàu Ingall Shipbuilding minh họa rõ điều này. Litton đã rất thành công trong thập kỷ 1960 với các hợp đồng đóng tàu cho Hải quân. Nhưng khi chi quốc phòng của Mỹ giảm xuống, Litton nhận ra rõ khả năng giảm lợi nhuận cũng như lợi ích. Hãng quyết định cơ cấu lại, nhưng việc từ bỏ xưởng đóng tàu không thực hiện được, do không bán được các thiết bị đóng tàu giá cao & đưa tính chuyên môn hóa cao. Cuối cùng, Litton buộc phải ở lại trong thị trường đóng tàu đang xuống dốc.

Tính phong phú của các địch thủ với các đặc tính văn hóa, lịch sử & triết lý khác nhau khiến cho nghề kinh doanh trở nên không ổn định. Có những công ty du học tăng lên không tuân theo quy luật khiến cho các công ty du học khác không nhận xét được chuẩn xác tình hình thị trường, chính vì như vậy, tính cạnh tranh cũng không ổn định & có khuynh hướng tăng trưởng. Nghề kinh doanh phòng khám là một điển hình. Nghề này bao gồm nhiều loại: các phòng khám trước đó là các tổ chức từ thiện hoặc tổ chức cộng đồng, phòng khám có mối liên hệ với các tổ chức tôn giáo hoặc trường đại học & các phòng khám hoạt động vì lợi ích. Sự hỗn hợp các triết lý hoạt động thỉnh thoảng dẫn tới cạnh tranh dữ dội giữa các phòng khám để thu hút người bệnh đến khám bệnh & điều trị. Song thỉnh thoảng, các phòng khám đó lại phối phù hợp với nhau để khắc phục những vấn để y tế cộng đồng, chẳng hạn như cùng hoạch định sách lược chống bệnh dịch.

Sự chọn lọc trong nghề. Thị trường tăng lên & có thời cơ nhận được lợi ích cao động viên các hãng mới tham gia thị trường & các hãng cũ tăng sản lượng. Vì thế trong nghề sẽ có nhiều địch thủ cạnh tranh hơn. Đến một khi nào đó, mức độ tăng lên chững dần & thị trường trở nên bão hòa, tạo ra tình huống cung vượt quá cầu. Khi đó cuộc chọn lọc diễn ra, cạnh tranh dữ dội kéo theo chiến tranh giá thành & một số công ty du học phá sản.

Bruce Henderson, founder ra Tập đoàn Tư vấn Boston (BCG), đã tổng quát hóa hiện tượng này thành Quy luật Ba & Bốn, tức là: một thị trường ổn định sẽ không có quá ba địch thủ cạnh tranh lớn, & địch thủ mạnh nhất sẽ không có số thị phần nhiều hơn bốn lần đối với địch thủ nhỏ nhất.

Dù quy luật về thị trường ổn định đúng đến mức nào, thì rõ ràng và cụ thể là tính ổn định của thị trường & những biến đổi trong cung cầu đều tác động đến tính cạnh tranh. Tính chu kỳ của cầu so với sản phẩm gây ra mức độ cạnh tranh dữ dội. Điều này có thể thấy được qua một số thị trường có chu kỳ kinh doanh khá dễ phán đoán như thị trường thị trường thiếp chúc mừng, thị trường tã giấy con nít với lượng cầu dao động theo tỷ lệ sinh.

2. Rủi ro Thay thế (Threat of Substitutes)

Trong mô hình của Porter, thuật ngữ “sản phẩm thay thế” là đề cập đến sản phẩm thuộc các nghề sản xuất khác. Theo các nhà kinh tế, rủi ro thay thế hiện ra khi nhu cầu về một sản phẩm bị tác động bởi sự biến đổi giá thành của một hàng hóa thay thế. Độ giãn nở nhu cầu theo giá của một sản phẩm chịu ảnh hưởng của sự biến đổi giá ở hàng hóa thay thế. Càng có nhiều hàng hóa thay thế thì đồ thị trổ tài nhu cầu sản phẩm càng có độ giãn nở cao (có nghĩa là chỉ một sự biến đổi nhỏ trong giá sản phẩm cũng kéo theo sự biến đổi lớn trong lượng cầu sản phẩm) vì hiện tại người mua có nhiều sự lựa chọn hơn. Vì thế, sự tồn tại của các hàng hóa thay thế làm giới hạn khả năng tăng giá của công ty trong một nghề sản xuất khẳng định.

Sự cạnh tranh gây ra bởi rủi ro thay thế này thường tới từ các sản phẩm bên ngoài nghề. Giá của các lon đựng nước bằng nhôm bị cạnh tranh bởi giá của các loại vỏ hộp khác như chai thủy tinh, hộp thép & hộp nhựa. Ngày nay, giá của các lốp xe mới không đắt đến mức người ta phải vá lại lốp xe cũ để dùng. Nhưng trong nghề vận chuyển, lốp mới rất đắt trong lúc lốp bị hỏng rất nhanh chóng, chính vì vậy nghề vá lốp xe tải vẫn còn tiến triển được. Còn trong nghề sản xuất tã sơ sinh, tã vải là một mặt hàng thay thế & chính vì vậy, giá của tã vải đặt hạn chế cho giá của tã giấy.Dù rằng rủi ro về hàng thay thế thường tác động đến nghề, thông qua sự cạnh tranh giá thành, nhưng người ta còn quan tâm đến các khía cạnh khác khi nhận xét về mối rủi ro này. Hãy suy xét khả năng thay thế của các loại truyền hình: trạm truyền hình bản địa truyền đến TV từng nhà nhờ tín hiệu vô tuyến, nhưng dịch vụ này có thể bị thay thế bởi dịch vụ truyền hình cáp, vệ tinh hay truyền hình bằng đường smartphone. Các công nghệ mới & cơ cấu biến đổi của các phương tiện tiêu khiển cũng góp thêm phần tạo ra sự cạnh tranh giữa các phương tiện tiêu khiển có khả năng thay thế lẫn nhau này, trừ những vùng xa xôi, nơi truyền hình cáp khó có thể cạnh tranh chống lại truyền hình Free qua ăng-ten với rất ít chương trình tiêu khiển để phục vụ KH.

Đọc thêm: Thuốc Clamoxyl 250Mg Là Thuốc Gì ? Giá Bao Nhiêu? Mua Ở Đâu?

3. Sức mạnh của KH (Buyer Power)

Sức mạnh KH là tác động của KH so với một nghề sản xuất nào đó. Nhìn chung, khi sức mạnh KH lớn, thì mối quan hệ giữa KH với nghề sản xuất sẽ gần với cái mà các nhà kinh tế gọi là độc quyền mua – tức là thị trường có nhiều nhà sản xuất nhưng chỉ có một người mua. Trong điều kiện thị trường như thế, KH có khả năng áp đặt giá. Nếu KH mạnh, họ có thể buộc giá hàng phải giảm xuống, khiến tỷ lệ lợi ích của nghề giảm. Có rất ít hiện tượng độc quyền mua trên thực tiễn, nhưng vẫn thường tồn tại mối quan hệ không cân đối giữa một nghề sản xuất & người mua. Sau đây là những yếu tố quyết định sức mạnh KH.

KH có sức mạnh lớn khi:

– KH có tính chăm chú cao, tức là có ít KH chiếm một thị phần nhiều. 

– KH mua một lượng lớn sản phẩm sản xuất ra trong cục diện kênh cung cấp hoặc sản phẩm đã được chuẩn hóa. Chẳng hạn thị trường bán lẻ mênh mông của các hãng Circui City & Sear giúp cho họ nắm được quyền lực tương đối để áp đặt giá thành với các nhà cung cấp đồ dân dụng. 

– KH có khả năng sát nhập hay thậm chí là mua hãng sản xuất. Chẳng hạn điển hình là các nhà cung cấp ô tô lớn rất có thể mua hãng sản xuất lốp xe. 

KH yếu trong những trường hợp sau: 

– Trường hợp sát nhập xảy ra: nhà cung cấp có khả năng sát nhập hoặc mua hãng cung cấp/ bán lẻ, ví dụ như các hãng sản xuất phim thường có thể mua lại các rạp chiếu phim. 

– Ngân sách chuyển hóa sản phẩm của KH lớn, thường do sản phẩm không được chuẩn hóa, chính vì như vậy KH chẳng thể đơn giản chuyển sang sử dụng sản phẩm khác được, điển hình là việc hãng IBM duy trì sách lược sử dụng hệ thống 360 trong thập niên 1960. 

– Có rất là nhiều KH, chính vì như vậy không KH nào có tác động đáng nói tới sản phẩm hoặc giá sản phẩm. Hiện tượng này xảy ra với đa số các loại hàng hóa chi tiêu. 

– Nhà cung cấp phân phối giá trị đầu vào đáng kể cho sản phẩm của người mua – trổ tài qua mối quan hệ giữa Hãng sản xuất Intel với các nhà cung cấp máy vi tính. 

4. Sức mạnh của nhà sản xuất (Supplier Power) 

Một nghề sản xuất đòi hỏi cần phải có các nguyên liệu thô – bao gồm lao động, các phòng ban cấu thành & các đầu vào khác. Đòi hỏi này kéo theo mối quan hệ bên mua – bên phân phối giữa các nghề sản xuất & các hãng phân phối các nguyên liệu thô để chế tác sản phẩm. Sức mạnh của nhà sản xuất trổ tài khả năng quyết định các điều kiện giao dịch của họ so với công ty. Những nhà sản xuất yếu thế có thể phải đồng ý các điều khoản mà công ty đặt ra, nhờ đó công ty giảm được ngân sách & tăng lợi ích trong sản xuất, trái lại, những nhà sản xuất lớn có thể gây áp lực so với nghề sản xuất bằng nhiều cách, ví dụ đặt giá thành nguyên liệu cao để san sẻ phần lợi ích của nghề. 

Sau đây là một số yếu tố quyết định sức mạnh của nhà sản xuất: 

– Mức độ chăm chú của các nhà sản xuất. Sức mạnh của nhà sản xuất sẽ rất lớn, nếu mức độ chăm chú của họ cao. Nếu nhà sản xuất của một công ty phải cạnh tranh với nhiều nhà sản xuất khác, thì có khả năng là họ sẽ phải đồng ý những điều khoản bất lợi hơn, vì công ty có thể mau chóng chuyển sang đặt mua của nhà sản xuất khác, vì vậy, nhà sản xuất buộc phải đồng ý hiện trạng bị ép giá. Sức mạnh nhà sản xuất tăng trưởng, nếu mức độ chăm chú trong ngành nghề phân phối cao, ví dụ như sức mạnh của nghề chế phẩm (nhà sản xuất) so với các phòng khám là rất lớn. 

– Mức độ chuẩn hóa của đầu vào. Việc đầu vào được chuẩn hóa cũng làm tăng tính cạnh tranh giữa các nhà sản xuất & vì thế làm giảm sức mạnh của họ, ví dụ như mối quan hệ giữa các nhà cung cấp lốp (nhà sản xuất) với các nhà cung cấp ôtô. 

– Ngân sách biến đổi nhà sản xuất. Ngân sách này càng cao thì công ty sẽ càng phải chịu nhiều điều khoản bất lợi mà nhà sản xuất đưa ra, vì việc chuyển từ nhà sản xuất này sang nhà sản xuất khác sẽ buộc công ty sản xuất phải chịu các ngân sách đồ sộ. Mối quan hệ giữa Microsoft (với vai trò nhà sản xuất) với các nhà cung cấp máy vi tính trổ tài rõ điều này. 

– Rủi ro tăng cường thống nhất giữa nhà sản xuất & nhà cung cấp sản xuất, ví dụ như hãng sản xuất đồ uống mua các tiệm rượu, hay hãng Baxter International – nhà cung cấp các thiết bị y tế – mua lại NPP American Hospital Supply. Khả năng này càng cao thì sức mạnh của nhà sản xuất càng lớn. 

– Sức mạnh của công ty thu mua. Trong giao dịch thương mại, sức mạnh của KH hẳn nhiên sẽ làm giảm sức mạnh của nhà sản xuất. Sức mạnh này được trổ tài rõ một khi KH tẩy chay không mua sản phẩm. 

5. Các chướng ngại vật tham gia (Barriers to Entry) 

Không những các địch thủ giờ đây mới tạo nên rủi ro đe dọa các công ty trong một nghề, mà khả năng các hãng mới có thể tham gia nghề cũng tác động đến cuộc cạnh tranh. Xét về mặt lý thuyết, bất kể công ty du học nào cũng có thể gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường, nếu tồn tại “cổng vào” & “cổng ra” tự do. Khi đó, lợi ích của nghề sẽ là không đáng kể. Ngoài ra trên thực tiễn, mỗi nghề có những bí quyết riêng để bảo vệ mức lợi ích cao của các nhà cung cấp đã có mặt trong thị trường, song song ngăn cản các địch thủ tiềm năng tham gia vào thị trường đó. Những bí quyết này được gọi là các chướng ngại vật tham gia. 

Các chướng ngại vật tham gia không những là sự bố trí thông thường của thị trường. Ví dụ như khi lợi ích của nghề tăng trưởng, tất cả chúng ta phán đoán rằng sẽ có thêm các hãng mong muốn xâm nhập vào thị trường để được hưởng mức lợi ích cao đó, khiến lợi ích của các hãng trong nghề giảm dần. Khi lợi ích giảm, tất cả chúng ta lại phán đoán rằng một số công ty du học sẽ rút lui, nhờ đó, hiện trạng cân đối thị trường được tái lập. Giá giảm, hoặc phán đoán rằng giá sẽ giảm trong tương lai, ngăn cản các địch thủ tiềm năng bước vào thị trường. Các công ty du học sẽ ngần ngại không mong muốn gia nhập một thị trường bất ổn, đặc biệt là nếu việc gia nhập thị trường đòi hỏi phải tốn một khoản ngân sách khởi sự lớn. Đó là những bố trí thông thường của thị trường, nhưng nếu các hãng cố ý giữ giá thấp để duy trì mức lợi ích thấp của cả nghề (việc tập hợp các hãng thực hiện bí quyết này sẽ bị coi là hành động phạm pháp) như một sách lược để ngăn cản những công ty du học khác không bước chân vào thị trường, thì việc đặt giá để ngăn cản tham gia đó chính là một chướng ngại vật tham gia. 

Các chướng ngại vật tham gia là những quy định đặc thù của một nghề. Các chướng ngại vật này làm giảm vận tốc gia nhập của các công ty du học mới, nhờ đó duy trì mức lợi ích ổn định cho các công ty du học đang hoạt động trong nghề. Xét từ góc độ sách lược, các hãng có thể tạo nên, hoặc khai thác các chướng ngại vật này để tăng lợi thế cạnh tranh của mình. Các chướng ngại vật tham gia có thể bắt nguồn từ một số lý do chủ chốt sau đây: 

α, Chính phủ tạo ra các bức tường. Dù rằng vai trò chính của chính phủ trong thị trường là duy trì cạnh tranh công bình & lành mạnh thông qua các hành động phòng độc quyền, nhưng chính phủ vẫn giới hạn cạnh tranh thông qua việc đồng ý độc quyền & công bố các quy định. Nghề công nghiệp phân phối điện được coi là độc quyền tự nhiên, vì một công ty du học phân phối điện cho khu vực sẽ hiệu quả hơn là cho phép nhiều công ty du học điện cùng tồn tại trên một địa phận. Để giảm bớt các công ty du học điện lực khai thác lợi thế này, chính phủ cho phép có một nhà độc quyền phân phối điện, nhưng ra quy định chặt chẽ với nghề này. 

Một chẳng hạn khác của chướng ngại vật tham gia là công ty du học truyền hình cáp bản địa. Công ty du học này được một nhà sản xuất cáp truyền hình cho phép truyền đi các chương trình của họ sau một trận đấu giá cạnh tranh, nhưng một khi công ty du học đã sở hữu được quyền kinh doanh truyền hình cáp thì sự độc quyền đã tạo ra. Chính quyền bản địa thường chẳng thể làm chủ giá một cách hiệu quả, vì công ty du học này có thể đơn giản khai man, chính vì vậy chính phủ phải đưa ra các luật để suy xét & giới hạn giá dịch vụ trong nghề này. 

Quyền ra quy định để giảm bớt cạnh tranh của chính phủ được trổ tài rõ trong lịch sử nghề bank. Cho tới thập niên 1970, thị trường mà bank có thể gia nhập bị chính phủ giới hạn, vì vậy, đa số bank đều chỉ là các nền tảng bank bản địa. Các bank cạnh tranh thông qua những sách lược lưu tâm đến một số dụng cụ thị trường dễ dàng như nâng cốc chúc mừng các KH mới đến mở account. Khi chính phủ huỷ bỏ các quy định nghiêm ngặt trong nghề này, các bank được phép vượt mặt biên cương bản địa mình & mở rộng thị trường. Việc huỷ bỏ quy định nghề bank tạo nên cạnh tranh mãnh liệt, song song gây ra sự bất ổn định trong nghề vì các bank khó duy trì thị phần của mình như trước. Vào cuối thập niên 1970, các bank đã chuyển từ những chiến thuật marketing dễ dàng tới chiến thuật sát nhập & mở rộng vùng địa lý khi có địch thủ toan tính xâm nhập thị trường. 

ɓ, Bằng sáng chế & sở hữu trí tuệ là một chướng ngại vật tham gia. Các sáng kiến & học thức giúp chuyên sâu lợi thế cạnh tranh được coi là sở hữu cá nhân sau khoảng thời gian được cấp bằng sáng chế & ngăn không cho những người khác áp dụng học thức này. Đây cũng là một chướng ngại vật tham gia. Edwin Land đã phát minh ra máy ảnh Polaroid năm 1947 & sáng lập một công ty du học độc quyền trong ngành nghề chụp hình lấy ngay. Năm 1975, Kodak mong muốn gia nhập vào thị trường máy chụp hình lấy ngay này & khởi đầu giới thiệu một loại máy ảnh tương đương. Polaroid mau chóng kiện Kodak vi phạm bản quyền & thắng kiện, buộc Kodak phải rời khỏi nghề công nghiệp béo bở này. 

ͼ, Tính đặc thù của tài sản giới hạn cổng vào nghề. Đặc thù tài sản thỉnh thoảng có thể khiến công ty du học sử dụng tài sản đó để sản xuất một sản phẩm hoàn toàn khác. Tính đặc thù của tài sản tạo nên bức tường tham gia bởi hai nguyên nhân. Đầu tiên, khi các công ty du học đã có những tài sản đưa tính chuyên môn hóa cao, họ sẽ quyết liệt chống lại nỗ lực mong muốn tham gia nghề của các công ty du học mới có mục đích giữ vững thị phần của mình. Các công ty du học mới tham gia có thể thấy trước mức độ cạnh tranh dữ dội này. Ví dụ như Kodak đã đầu tư nhiều vốn vào nghề kinh doanh thiết bị chụp hình & vấp phải sự chống cự quyết liệt của Fuji. Thứ hai là khi một nghề đòi hỏi công nghệ hoặc công xưởng hay thiết bị có tính chuyên môn hóa cao, thì các công ty du học mong muốn gia nhập hoạt động trong nghề sẽ ngần ngại trong việc đầu tư để có được các tài sản đó – vì những tài sản có tính chuyên môn cao như thế rất khó bán nếu công ty thua lỗ & mong muốn rút lui khỏi thị trường. 

{d}, Tính kinh tế theo quy mô. Sản xuất có hiệu quả ngân sách cao nhất được gọi là Quy mô có ngân sách nhỏ nhất (Minimum Efficient Scale – MES) – ngân sách sản xuất từng nhà cung cấp sản phẩm đạt mức thấp nhất đồng nghĩa với việc mức sản xuất có hiệu quả ngân sách cao nhất. Nếu đã biết MES của các công ty trong một nghề là bao nhiêu, thì tất cả chúng ta có thân thể định lượng thị phần thiết yếu để có ngân sách tham gia thấp hoặc tương tự với các địch thủ cạnh tranh. Ví dụ như cần chiếm dụng 10% thị trường để đạt được MES so với nghề liên lạc đường dài: nếu lợi nhuận của một nhà sản xuất dịch vụ liên lạc đường dài không đạt được 10% thị trường thì hãng đó sẽ không có tính cạnh tranh cao. 

Sự tồn tại của tính kinh tế theo quy mô này cũng tạo nên một chướng ngại vật tham gia. Khoảng cách giữa MES của nghề với ngân sách nhà cung cấp tại thời điểm tham gia càng lớn thì chướng ngại vật tham gia càng khổ cực. Chính vì thế, các nghề có MES cao thường làm nản lòng những công ty du học nhỏ mới khởi sự. Để hoạt động dưới MES thì hãng thường cần phải có một lợi thế nào đó làm cho hãng có thể bán giá bán đắt hơn, chẳng hạn như sự độc đáo hóa sản phẩm hay độc quyền bản địa. 

e, Các chướng ngại vật so với việc thoát ra khỏi nghề cũng tương tư như các chướng ngại vật tham gia. Vật cản thoát ra giới hạn khả năng rời khỏi thị trường của công ty du học & chính vì như vậy có thể khiến cho mức độ cạnh tranh trở nên gay gắt hơn – vì chẳng thể rời bỏ nghề, nên công ty du học buộc phải cạnh tranh để tồn tại. 

Có thể tóm lược điều kiện của bức tường tham gia & bức tường thoát ra như sau: 

– Một công ty du học khó tham gia nghề nếu: + Tồn tại các mẹo sản xuất hay sáng kiến được cấp bằng sáng chế; + Khó biến đổi mặt hàng sản xuất;+ Khả năng tiếp cận với kênh cung cấp thấp;+ Khoảng cách giữa ngân sách đầu vào đối với ngân sách đầu ra quá lớn. 

– Một công ty du học khó thoát ra khỏi nghề nếu: + Nghề đòi hỏi các tài sản có tính chuyên môn hóa cao;+ Ngân sách rời bỏ nghề cao; + Các công ty du học kinh doanh trong nghề có quan hệ chặt chẽ với nhau;


Mô hình 5 áp lực cạnh tranh – Michael Porter


Mô hình cạnh tranh hoàn hảo hàm ý rằng vận tốc bố trí lợi ích theo mức nguy cơ là tương tự nhau giữa các công ty & nghề kinh doanh. Ngoài ra, vô số phân tích kinh tế đã cam kết rằng các nghề khác nhau có thể duy trì các mức lợi ích khác nhau & sự độc đáo này phần nào được giải thích bởi cấu tạo khác nhau của các nghề……………
mô hình cạnh tranh của porter 5 áp lực apple bài tập vinamilk starbucks nghề Mô hình 5 áp lực cạnh tranh Michael Porter sữa lotteria unilever vinasun viettel honda ví dụ về dụng lượng dược ứng là gì Mô hình 5 áp lực cạnh tranh Michael Porter ngân hàng khái niệm ý nghĩa dệt may viễn thông wiki lợi thế bền vững bia thị trường bán lẻ điện tác kfc xây dựng chiến lược doanh nghiệp đa giác quốc gia các trên giới đánh giá năng phát hoàn hảo ảnh năm michael nhân tố yếu độc quyền cơ quan Mô hình 5 áp lực cạnh tranh Michael Porter quản lý samsung định vị đo lường điều tiết đối thủ
☑️ Kênh chia sẻ học thức, kinh nghiệm, mẹo luận…..
👉 Hãy subcribe channel để thu được những bài mới mau chóng
😍 LIKE nếu bạn thấy Hay
😋 DISLIKE nếu thấy clip không hữu dụng
☑️ COMMENT đặt thắc mắc
😉 SHARE FACEBOOK để mọi người cùng khám phá

Đọc thêm nội dung thuộc chuyên đề: Hỏi đáp
Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Hỏi đáp


source https://daquyneja.com/wiki/nam-nguon-luc-cua-porter-five-forces-la-gi-nam-nguon-luc-cua-porter-five-forces-5-ap-luc-canh-tranh-cua-michael-porter/

0 nhận xét:

Đăng nhận xét